Wednesday, September 25, 2024

Sự trở lại của Văn học đô thị miền Nam

Thời gian trước, tôi thật may mắn được chứng kiến buổi ngỏ ý của một nhà xuất bản, muốn tái bản lại cuốn Vòng tay học trò của nhà văn Nguyễn Thị Hoàng, một cây viết quen thuộc của độc giả miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Với Nguyễn Thị Hoàng, bà rõ là điểm sáng đáng quý trên bầu trời lấp lánh của văn chương tự do miền Nam Việt Nam trước năm 1975.

Văn chương miền Nam nói chung, thời gian gần đây dần dần được tái bản lại nhiều ở trong nước, trong con mắt nhìn kiểm duyệt ít vằn vện nghi ngờ hơn. Rồi thoáng thấy trên Facebook, báo điện tử… những lời chia sẻ với nhà văn Nguyễn Thị Hoàng về cuốn sách Vòng tay học trò được tái bản, cùng sự hào hứng của những người giới thiệu, quen gọi tên là tác phẩm thuộc “dòng văn học đô thị miền Nam”.

Nhưng nghe mà sao đột nhiên thấy chạnh lòng. Nghe “đô thị”, có vẻ như co cụm và không thuộc về nhân dân, không thuộc về một thời, một đời. Nói như nhà văn Nguyễn Hưng Quốc, nói văn chương “đô thị” miền Nam, thì không sai nhưng thừa. Bởi sự nhấn nhá riêng “đô thị” của miệng lưỡi tuyên truyền là thừa ác ý. Có nơi còn gọi là sự “trở lại” – sự trở lại của “văn chương đô thị miền Nam”. Cụm từ giới thiệu này thường được thấy khi có một tác phẩm của miền Nam trước 1975 được in lại.

Thế nhưng văn chương miền Nam đi đâu mà trở lại?

Toàn bộ chữ nghĩa đã được hình thành, nuôi dưỡng và tồn tại suốt trong hai nền cộng hòa ở miền Nam Việt Nam chỉ có một hành trình duy nhất là đi xuyên qua sự thù hận, bước qua chà đạp và hủy diệt… mà dù có đau đớn hay rách nát thế nào, nền văn chương (hay nền văn hóa Cộng hòa miền Nam Việt Nam nói chung) vẫn tiếp tục tồn tại trong một thời đại mới, và vẫn tỏa sáng với những tư tưởng tự do không kiểm duyệt.

Văn chương miền Nam Việt Nam, tự nó cũng giống như số phận của ông Khai Trí, một người ước mơ đem sách và chữ đến cho dân tộc mình, rồi chính quyền mới, nói tiếng Việt, tịch thu. Gia sản tri thức bị đốt và bản thân ông cũng bị cầm tù. Nhưng câu chuyện Khai Trí và những ấn phẩm của ông vẫn tiếp tục lưu truyền một cách im lặng trong lòng người dân Việt Nam, mà có những giai đoạn phải thầm kín và gìn giữ trong nơm nớp sợ hãi không khác gì những tờ truyền đơn của người Do Thái trong thời Phát xít Đức.

Trong sự kiểm duyệt chặt chẽ, một số sách vở của miền Nam VNCH dần được tái bản vì giá trị không thể phủ nhận được (Ảnh: Facebook)

Gần nửa thế kỷ, suốt thời thống nhất địa lý, văn chương miền Nam Việt Nam (chứ cũng không phải là đô-thị-miền-Nam), trở thành một di sản quý được tìm mua với những giá ngày càng đắt. Hãy thử nghĩ xem, vì sao một tổng tập của nhà thơ Tố Hữu có thể được in ấn tuyệt đẹp, trợ giá bán rẻ vẫn không có sức thu hút bằng một tập thơ mỏng, cũ rách của Nguyên Sa hay Thanh Tâm Tuyền?

“Văn học đô thị miền Nam” – cách gọi bị ám ảnh từ lối tuyên truyền văn hóa của chính quyền mới sau năm 1975 cho đến nay – vẫn ngầm chứa trong đó như một sự khinh thị, chỉ để góp vào cái nhìn toàn cảnh cố không công nhận miền Nam Việt Nam là một chính thể. Rất nhiều những tham luận, những nghiên cứu, và cả cuốn sách dày cộp của tác giả Trần Trọng Đăng Đàn “Văn hóa văn nghệ Việt Nam từ 54 đến 75” đều coi văn chương miền Nam là một thứ hỗn độn hình thành từ sự phồn vinh giả tạo của Mỹ-Ngụy. Báo Nhân Dân số ra ngày 13-9-2016, với bài viết “Ứng xử với văn học miền Nam trước năm 1975” của tác giả Hạnh Nguyễn, còn nói với giọng trịch thượng rằng “bằng sự gạn đục khơi trong, chính quyền cách mạng đã cho phép lưu hành 1067 cuốn sách tiếng Việt, 562 cuốn sách tiếng Anh, 359 cuốn từ điển bằng tiếng nước ngoài”.

Sự cho phép nó chỉ là một giả định trên đời sống thật. Không có phép thì suốt vài thập niên nay, người miền Nam vẫn ca hát những bài hát không được duyệt, thậm chí còn làm cho nó lan ra đến cả nước. Sách vở không được in, không có phép thì vẫn được chuyền tay nhau, và vẫn được thế hệ mới ngày hôm nay tìm đọc với một sự kinh ngạc về khung trời tự do trong tư tưởng. Cho phép và không cho phép, chỉ là màn trình diễn giả định về luật pháp giữa người dân và chính quyền, nghiễm nhiên tồn tại suốt bấy lâu nay.

Vì vậy, cách nói rằng văn chương đô thị miền Nam “trở lại”, khi có dăm ba cuốn sách cũ tái bản, có vẻ khiên cưỡng trong sự thật lịch sử của một di sản văn hóa vĩ đại của Việt Nam Cộng Hòa.

Nói “trở lại” là giả tạo trong việc mô tả một chính quyền đủ tốt để dung nhận tất cả. Giả tạo như tất cả mọi thứ trong cuộc sống đang là một vòng quay đẹp đẽ theo tự nhiên, nhưng lờ hẳn phần xin lỗi về một giai đoạn mà những nhà văn, nhà thơ miền Nam đã từng bị tù đày, và tác phẩm của họ thì bị đấu tố như kẻ thù của dân tộc.

Trong tiểu luận “Văn học Miền Nam 1954-1975: những Khuynh hướng chủ yếu và thành tựu hiện đại hóa” của giáo sư, tiến sĩ Huỳnh Như Phương, mô tả về căn nguyên quan trọng ra đời của nền văn hóa văn nghệ Miền Nam Việt Nam là bởi “nhờ đồng lương và các khoản thu nhập khác, nên một bộ phận công chức và giới trung lưu có thể chi tiêu những khoản tiền vào việc mua sắm theo ý muốn, ngoài các nhu cầu thiết yếu hằng ngày. Chính đây là tiền đề dẫn đến sự hình thành một thị trường văn nghệ ở miền Nam những năm 1954-1975”.

Có vẻ sự căn bản hình thành của văn chương miền Nam Việt Nam thực dụng và không được cao quý, theo cách mô tả của tất cả những ngôn luận nhận định từ bên thắng cuộc. Nhưng lại không hiểu vì sao hàng chục năm xây dựng xã hội chủ nghĩa, với những thành tựu xuất chúng, như trên báo chí vẫn nói, xã hội cách mạng hôm nay vẫn reo mừng khi những thứ bị chà đạp ấy quay “trở lại”, như Vòng tay học trò của nữ sĩ Nguyễn Thị Hoàng, và của nhiều trí thức miền Nam khác, từng bị phủ nhận.

Tuấn Khanh

 

Monday, September 23, 2024

TRUNG CỘNG, MỘT CƯỜNG QUỐC HÈN MỌN

Giới thiệu: Theo bản tin mới nhất sáng nay của TTXVN “Quốc tế hỗ trợ Việt Nam khắc phục hậu quả cơn bão số 3 và mưa lũ”, tính đến ngày 16 tháng 9, hàng loạt các quốc gia và các tổ chức thiện nguyện quốc tế đã hỗ trợ nạn nhân bão Yagi như Thụy Sĩ, Nam Hàn, Úc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ, Anh v.v…, các cơ quan quốc tế “Save the Children”, Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), Trung tâm Điều phối ASEAN v.v… Hoa Kỳ tặng 1 triệu trong tổng số 7,7 triệu Mỹ kim trong 5 năm qua để phòng chống bão lụt dù thời gian đó không có bão lớn và không có quốc gia nào hỗ trợ.

Trong danh sách dài không có nước “cùng chung vận mệnh” Trung Quốc. 

Thật ra điều đó không có gì lạ. Bản chất keo kiệt và hèn mọn của Trung Cộng cả thế giới đều biết. Họ không chỉ keo kiệt, tàn ác với người ngoài mà keo kiệt và tàn ác lẫn nhau như đã chứng tỏ suốt dòng lịch sử, cụ thể nhất là dưới thời CS. Hàng chục tác phẩm của các sử gia thế giới viết về nạn đói tại Trung Cộng với mấy chục triệu người chết, ăn thịt nhau trong khi Mao Trạch Đông sống như một đế vương. 

Khi các chính sách “đổi mới”của Đặng Tiểu Bình tạo điều kiện người dân có cơ hội cải thiện đời sống thì họ chỉ biết lao đầu vào vật chất để làm giàu. Tại các nước tự do, các tôn giáo đóng vai trò như những ngọn hải đăng hướng dẫn con người vốn dễ bị vật chất hóa trở về với các giá trị đạo đức và tinh thần, với tình yêu và lòng nhân ái. Những ngọn hải đăng đó đã bị dập tắt tại các nước CS. Tôn giáo tại các nước CS chỉ là một loại “công an tinh thần” của đảng CS.

Bài viết này không nhằm “trả thù” cách hành xử của Trung Cộng sau cơn bão Yagi  nhưng đã viết khi nhìn cách viện trợ của họ đối với Philippines trong trận bão Haiyan hơn mười năm trước.  

--------
Bangladesh là quốc gia có dân số 147 triệu ở vùng Nam Á. Sau cuộc chiến tạm gọi là nội chiến Pakistan dài phát xuất từ các lý do văn hóa, tôn giáo, địa lý, quốc gia Bangladesh được thành lập vào năm 1971. Về kinh tế, Bangladesh được xếp vào hạng thứ 151 trên thế giới, nghĩa là rất nghèo. Nhiều triệu trẻ em Bangladesh vẫn còn thiếu dinh dưỡng. Chẳng những thế, các nước chung quanh cũng là những nước nghèo không thua kém nên các quan hệ kinh tế thương mại trong khu vực chẳng phát triển gì nhiều. Nhưng khi trận bão lụt Katrina xảy ra ở New Orleans, Mỹ, tháng 8 2005, Bangladesh là một trong những quốc gia đầu tiên đáp ứng về cả nhân lực lẫn tài chánh. Chính phủ Bangladesh đã tặng nạn nhân Katrina 1 triệu Dollar và sẵn sàng đưa chuyên viên sang giúp xây dựng các đê điều ở New Orleans mà họ vốn có nhiều kinh nghiệm.

Đa số các nhà bình luận đều đồng ý, trên tất cả những khía cạnh chính trị, kinh tế, nghĩa cử của chính phủ Bangladesh đã nói lên tấm lòng nhân ái của những người cùng cảnh ngộ. Năm 1974, Bangladesh vừa mới thành lập đã phải chịu một trong những cơn lụt lớn nhất trong lịch sử nhân loại với gần 30 ngàn người chết. Những cơn mưa mùa kéo dài suốt tháng đã làm xứ sở này sống với lũ lụt thường xuyên như chúng ta thấy trên các phóng sự truyền hình. Không ai hiểu được nỗi lòng của người chịu đựng lũ lụt hơn những người phải than thở “trời hành cơn lụt mỗi năm” như người dân Bangladesh.

Ngày 4 tháng 11, bão Haiyan hay Yolanda theo cách gọi của Philippines được cảnh báo và ngày 7 tháng 11, Tổng thống Phi Benigno Aquino III kêu gọi dân chúng trong vùng bão sẽ đi qua di tản tức khắc. Nhưng nhiều khu vực không biết tin tức và dù có nhận được lịnh cũng không biết đi đâu. Và vài giờ sau, lúc 6 giờ sáng cơn bão với sức gió 275 kilomet giờ vào đất liền.

Theo ước lượng của các cơ quan thiện nguyện quốc tế nhiều chục ngàn người dân Phi tại các đảo miền trung Philippines đã chết do cơn bão Haiyan gây ra. Chỉ riêng đảo Leyte Island đã có 10 ngàn người chết. Theo ước lượng của cơ quan National Disaster Risk Reduction and Management Council (NDRRMC) thuộc chính phủ Phi, khoảng 9.5 triệu người bị ảnh hưởng và 630 ngàn người đang lâm cảnh màn trời chiếu đất. 

Trong điêu tàn đổ nát do siêu bão Haiyan gây ra những hạt giống tình thương đang được gieo trồng. Hàng trăm quốc gia, hàng ngàn tổ chức từ thiện khắp thế giới đang đổ về Philippines không chỉ với thuốc men, áo quần, thực phẩm mà cả nhân lực để góp phần hàn gắn vết thương. Chính phủ Mỹ chỉ vài giờ sau cơn bão đã thông báo viện trợ khẩn cấp 20 triệu Dollar, Anh tặng 16 triệu Dollar, Nhật Bản tặng 10 triệu Dollar. Đó chỉ là tiền mặt, ngoài ra, các hàng không mẫu hạm HMS Illustrious của Anh, USS George Washington của Mỹ chuyên chở thuốc men và vật dụng cần thiết đến Phi.
Và Trung Cộng, quốc gia có nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới đã viện trợ 100 ngàn Dollar.

Đừng nói gì các công ty như IKEA cam kết 2.7 triệu Dollar, Coca-Cola cam kết 2.5 triệu Dollar, số tiền viện trợ của cường quốc thứ hai trên thế giới có thể còn thấp hơn số tiền do các cựu thuyền nhân và đồng hương Việt Nam tại hải ngoại đóng góp. 
Báo Times bình luận 100 ngàn Dollar là một sỉ nhục đối với Philippines. 

Trước phản ứng của dư luận thế giới mới đây Trung Cộng đã gia tăng viện trợ lên đến 1.64 triệu Dollar nhưng không phải tiền mặt mà là mùng mền, chăn chiếu. Những món “Made in China” này nghe qua là đã sợ.

Nhiều nhà bình luận dù phê bình Trung Cộng đã yểm trợ chỉ bằng sáu phần trăm số tiền New Zealand đã hứa nhưng không ai hiểu tại sao các lãnh đạo Trung Cộng lại có thể làm như thế, chẳng lẽ chúng không biết thế nào là xấu hổ hay sao. Ngay cả tờ Global Times có khuynh hướng dân tộc cực đoan cũng viết trong phần bình luận ngày 12 tháng 11, 2013 “Trung Quốc như một cường quốc có trách nhiệm nên tham gia vào các hoạt động cứu trợ để giúp đỡ nạn nhân của quốc gia láng giềng. Nếu Trung Cộng làm nhục Philippines lần này, Trung Quốc sẽ chịu tổn thất lớn lao.”

Lãnh đạo Trung Cộng không phải là không nhận ra điều đó nhưng Trung Cộng ngày nay không phải là một Trung Cộng mà Chu Ân Lai từng thề nguyền sát cánh cùng các nước nghèo, láng giềng, từng bị thực dân cai trị tại hội nghị Bandung ở Nam Dương 1955. Trung Cộng ngày nay cũng không phải là một Trung Cộng mà Đặng Tiểu Bình đã hứa chia ngọt sẻ bùi với các quốc gia Đông Nam Á bằng những lời đường mật trong chuyến viếng thăm của y năm 1978. Cơn bĩ cực đã qua, thời thái lai đang tới, lãnh đạo Trung Cộng ngày nay là một đám kiêu căng đang giương cao ngọn cờ chủ nghĩa dân tộc Đại Hán và chủ nghĩa này sẽ là chảo dầu của chiến tranh thế giới lần thứ ba phát xuất tại Á Châu.

Trung Cộng là một trong những nước có nguồn dự trữ vàng lớn nhất thế giới, là nước chủ nợ lớn nhất thế giới và GDP có khả năng sẽ vượt qua Mỹ vào năm 2020 với ước lượng khoảng 24 ngàn tỉ Dollar. Trung Cộng có rất nhiều cái nhất nhưng những điều đó không làm nên giá trị của một quốc gia, không làm cho nhân loại kính trọng Trung Cộng hơn Bangladesh, bởi vì giá trị của một quốc gia không phải được xác định bằng của cải mà bằng các tiêu chuẩn đạo đức, dân chủ, văn minh và văn hóa.

Khi bàn về những phẩm chất để làm một quốc gia trở nên vĩ đại và được kính trọng, nhà văn Thomas Fann, trong một tiểu luận xuất sắc đã nêu ra 10 yếu tố gồm tự do, công lý, danh dự, đạo đức, lòng thương cảm, thành thật, giá trị cuộc sống, sáng tạo, khả năng vượt trội, bảo vệ môi trường cho các thế hệ tương lai. Thomas Fann nhấn mạnh đến việc nghĩ đến các thế hệ tương lai khi nhắc câu chuyện Disneyland. Ông Walt Disney chết năm năm trước ngày Disney World ở Florida, Mỹ, khai mạc. Trong lễ khai mạc, có người than phải chi ông còn sống để thấy những khu chơi dành cho cho thiếu nhi huy hoàng tráng lệ như ngày nay. Thật ra, với tầm nhìn xa và tư duy khai phóng, ông Walt Disney đã thấy những nụ cười rạng rỡ, những ánh mắt vui tươi của trẻ em từ lâu trước ngày khai mạc Disneyland.

Trung Cộng không đạt bất cứ một phẩm chất nào trong mười phẩm chất nêu trên. Nhưng nếu phải xếp hạng, có lẽ nên được xếp Trung Cộng cùng thời đại với các nhóm dân bộ lạc bán khai ăn thịt người còn sống tản mác trong các khu rừng ở Congo, vùng West Indies và khu vực Amazon hoang dã. 

Tại sao?
Cách đây không lâu Trung Cộng là một trong số ít quốc gia mà cha mẹ đã làm thịt con đẻ của mình để sống qua ngày. Cách đây không lâu đã có hơn ba chục triệu người dân Trung Cộng phải chết đói, ăn thịt nhau một cách công khai trong thời kỳ Bước tiến nhảy vọt và Công xã nhân dân, tức giai đoạn người dân phải đem nồi niêu xoong chảo ra các “nhà luyện kim sau vườn” để “đúc thép” theo chủ trương của Mao Trạch Đông. (The Great Famine in China, 1958-1962: A Documentary History, Edited by Zhou Xun. Published by: Yale University Press. Copyright Date: 2012.)

Không chỉ trong 40 năm trước, mà ngay cả ngày nay cũng thế, trong lúc đại đa số nhân loại đã qua khỏi thời kỳ dã man cả ngàn năm nhưng tại Trung Cộng việc ăn thịt người là một thức ăn sang trọng. Tờ Next Magazine phát hành tại Hong Kong cho rằng tại Trung Cộng, thai nhi là thức ăn phổ biến. 

Tháng Năm, 2012, trên tờ Washington Times, nhà văn và nhà nghiên cứu Youngbee Dale cho biết sở quan thuế Nam Hàn đã tịch thu 17 ngàn viên thuốc chế bằng thai nhi sản xuất tại Trung Cộng. Chính sách một con đã buộc các cặp vợ chồng chọn phá thai dù ở giai đoạn nào khi biết đứa bé sắp chào đời là con gái. Đài truyền hình Nam Hàn chiếu một phóng sự kinh hoàng, trong đó, các bác sĩ người Hoa thực hiện các ca phá thai và ăn bào thai ngay tại chỗ. Một bác sĩ người Hoa khác để dành bào thai trong tủ lạnh như để dành tôm cá. Việc ăn thịt người xảy ra nhiều nơi ở các bộ lạc bán khai Phi Châu, Nam Mỹ nhưng ăn thịt người được nhà nước cho phép chỉ xảy ra tại quê hương của Tập Cận Bình.

Trung Cộng như một cường quốc kinh tế và theo thông lệ chính trị quốc tế, phải hành xử đúng tư cách của một cường quốc dù đối với bạn hay thù. Nhưng không, lãnh đạo Trung Cộng không có trái tim và lòng nhân đạo và cũng không quan tâm đến sĩ diện của quốc gia. Đối với chúng tiền bạc là vũ khí, là cây gậy. Philippines là quốc gia tranh chấp với Trung Cộng về chủ quyền biển Đông nên những đứa bé Philippines đang hấp hối ở Tacloban phải chết thay cho chính phủ của các em.

Lãnh đạo Trung Cộng là những kẻ nói như Bá Dương nhận xét về nước của ông ta “Người Tây phương có thể đánh nhau vỡ đầu rồi vẫn lại bắt tay nhau, nhưng người Trung Quốc đã đánh nhau rồi thì cừu hận một đời, thậm chí có khi báo thù đến ba đời cũng chưa hết.”

Tại sao người Nhật không ghét Mỹ dù Mỹ đã ném hai trái bom nguyên tử giết 240 ngàn người Nhật tại hai đảo Hiroshima và Nagasaki? Bởi vì đó là lịch sử. Con người cũng như quốc gia, không ai có thể quay ngược lại bánh xe thời gian và chỉ có thể vượt qua nỗi đau quá khứ bằng cách xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn cho các thế hệ mai sau. Trung Cộng thì khác. Mối nhục một trăm năm được ghi đậm ngay trong phần mở đầu của hiến pháp và lòng thù hận nước ngoài đã được đảng CS khai thác tận tình.

Trung Cộng sẽ đồng nghĩa với bản chất ti tiện, dã man, kiêu căng, thù vặt và thù dai. Bản chất đó là “sự kết hợp hài hòa và nhuần nhuyễn” của dòng máu bành trướng Đại Hán và đặc tính Cộng Sản độc tài. 

Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, Trung Cộng là quốc gia có tổng sản lượng nội địa năm 2012 hơn bảy ngàn tỷ Dollar nhưng trong mắt của phần lớn nhân loại, trị giá của cường quốc này chỉ đáng 100 ngàn.

Trung Cộng là một cường quốc hèn mọn.

Trần Trung Đạo

Sunday, September 22, 2024

Song Chi: Đáng lẽ không một ai trong số họ phải vào tù!

 Kỹ sư, doanh nhân Trần Huỳnh Duy Thức, một trong những tù nhân lương tâm, tù nhân chính trị nổi bật của thế hệ đấu tranh sau ngày 30/4/1975 đã ra tù ngày 21/9/2024. Tin tức được gia đình thông báo trên trang Facebook mang tên anh, đã lan truyền rất nhanh, khắp trang mạng xã hội tràn ngập những lời chúc mừng, và các đài, báo tiếng Việt ở bên ngoài nước đã kịp thời nhanh chóng đưa tin.

Nếu theo đúng bản án 16 năm phi nhân – sẽ hết hạn vào tháng 5/2025 – mà nhà cầm quyền tròng lên cổ Trần Huỳnh Duy Thức, thì anh đã được thả sớm hơn khoảng 8 tháng. Cùng được thả với anh là nhà hoạt động môi trường Hoàng Thị Minh Hồng, bị khởi tố vào tháng 6/2023 và bị kết án ba năm tù giam với tội danh trốn thuế vào tháng 9/2023, cũng được thả sớm hơn thời hạn 21 tháng.

Cần phải nói ngay rằng, việc thả một vài tù nhân chính trị, tù nhân lương tâm ngay trước chuyến đi Mỹ lần này là nhu cầu của đảng cộng sản Việt Nam và của ông Tô Lâm, Tổng Bí thư đảng cộng sản, Chủ tịch nước.  

Với đảng, nhà nước cộng sản Việt Nam, là nhằm xoa dịu chính phủ Mỹ về tình trạng đàn áp nhân quyền ngày càng tồi tệ tại Việt Nam, là “món quà” để thương lượng, đổi chác lấy những lợi ích về kinh tế. Còn đối với chính bản thân ông Tô Lâm, là nhằm làm giảm bớt những ấn tượng xấu xí về một ông cựu Thứ trưởng Bộ Công An với những “thành tích” chà đạp nhân quyền và các vụ scandal vượt khỏi biên giới: bắt cóc người ngay giữa thủ đô nước khác, ăn uống xa hoa khi đang công du ở nước ngoài v.v…Đó là nhu cầu của nhà cầm quyền, không phải nhu cầu của các tù nhân, một khi họ đã chấp nhận ở tù vì lý tưởng của mình. Cho nên chúng ta cũng đừng vội cho rằng đó là những dấu hiệu thay đổi, cởi mở từ phía nhà cầm quyền.

Chừng nào nhà nước này thả cùng lúc cả trăm tù nhân lương tâm, thì mới có thể coi là một dấu hiệu bước đầu của ý muốn thực sự thay đổi.

Trong bài viết đầu tiên đăng trên Facebook sau khi ra tù, anh Trần Huỳnh Duy Thức cho biết trước đó đại diện của trại giam thông báo cho anh là Chủ tịch nước muốn quyết định đặc xá cho anh và đề nghị anh phải viết đơn xin đặc xá. Tất nhiên là anh Thức không chịu, vì bao nhiêu năm qua anh vẫn khẳng định mình không có tội gì để mà phải ở tù, phải xin được đặc xá. Thuyết phục anh không được, hơn 20 người của Trại giam sau đó đã xông vào buồng giam đọc thông báo rằng Chủ tịch nước đã ký Quyết định đặc xá  số…ngày…cho anh, vì vậy anh trở thành người tự do và không có quyền tiếp tục ở lại trại giam. Khi anh Thức cương quyết sẽ không đi đâu cả, thì họ cưỡng bức, khiêng anh ra khỏi cổng nhà tù, đưa lên xe ra sân bay Vinh, từ đó buộc anh phải đáp chuyến máy bay vào Sài Gòn. Anh gọi đó là “đặc xá cưỡng bức”—thêm một từ mới được cập nhật trong từ điển tiếng Việt dưới chế độ độc tài toàn trị do đảng cộng sản lãnh đạo!

Nhìn những hình ảnh đầu tiên của anh, gầy gò, trắng xanh, tóc đã bạc, có người cảm thán: “16 năm trường, đầu đã bạc và biết bao nhiêu nước đã chảy qua cầu!”. Còn nhà thơ Nguyễn Tấn Cứ thì viết:

16 năm một đời người trắng xóa
Vào tóc xanh giờ đã phai mờ
Bao nhiêu năm thương nhớ con người
Làm sao biết đang cười hay khóc

Khi anh về trời mưa tang tóc
Ở ngoài kia nước lũ dâng tràn
Đất cũng chảy theo trời giông bão
Thế giới gào chưa hết thương đau

Cũng như Nelson Mandela
Bất bạo động không ngừng
Tôi không chúc mừng anh
Chỉ cầu mong anh khỏe
Cầu mong anh bước qua bóng tối
Đời còn bao lâu cho một giấc mộng dài.

Lại chạnh lòng nhớ đến bài thơ Ta về của nhà thơ Tô Thùy Yên viết năm 1985, sau mười năm tù cải tạo, bài thơ với những câu ngậm ngùi, nhưng vẫn tràn đầy một tâm hồn cao thượng, nhân văn:



Ta về – một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai…
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ?
Mười năm, đá cũng ngậm ngùi thay

Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp
Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu
Mười năm, mặt xạm soi khe nước
Ta hoá thân thành vượn cổ sơ

Ta về qua những truông cùng phá
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay

Chỉ có thế. Trời câm đất nín
Đời im lìm đóng váng xanh xao
Mười năm, thế giới già trông thấy
Đất bạc màu đi, đất bạc màu…

Ta về như bóng chim qua trễ
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa
Ai đứng trông vời mây nước đó
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ

….

Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi



Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây, xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này

Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thuở trần gian bay lướt qua
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành không trải hết được lòng ta

7-1985

Ngẫm lại gần tám mươi năm cầm quyền ở miền Bắc và gần nửa thế kỷ giành độc quyền lãnh đạo trên toàn quốc Việt Nam, đảng cộng sản đã thủ tiêu, ám sát, kết án, đày đọa trong lao tù bao nhiêu người con ưu tú, tinh hoa của đất nước này? Từ những nhân sĩ, trí thức, thủ lĩnh tôn giáo, đối thủ của các đảng phái chính trị đối lập giai đoạn 1930-1945; các văn nghệ sĩ trí thức bất đồng chính kiến, giai cấp bị gọi là địa chủ phong kiến, tư sản, tiểu tư sản giai đoạn 1945-1975 ở miền Bắc; hàng trăm ngàn dân quân cán chính, trí thức, văn nghệ sĩ, các khuôn mặt nổi bật của các tổ chức tôn giáo…của chế độ VNCH sau khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc; tiếp theo là những người bất đồng chính kiến, nhà hoạt động xã hội dân sự, dân oan…lớn lên dưới chế độ XHCN Việt Nam, trong đó có cả các cựu binh từng chiến đấu dưới lá cờ của đảng cộng sản, các đảng viên lão thành…

Tranh Đinh Trường Chinh

Không thể kể hết bao nhiêu con người tài năng, đầy nghị lực, đầy tâm huyết với đất nước, dân tộc đã bị giết hoặc bị mất đi những năm tháng đẹp nhất của cuộc đời trong lao tù. Chỉ tính từ sau ngày 30/4/1975, có những con người mà nhân cách, trí tuệ cao vời vợi cả trăm năm mới có một như Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát) cũng từng bị tù 14 năm (1984-1998) và suýt bị tử hình; ngoài ra còn có Hòa thượng Thích Quảng Độ tuy chỉ ở tù khoảng 4 năm (1995-1998) nhưng cả đời bị quản thúc tại chùa, không được thuyết pháp, Hòa thượng Thích Không Tánh bị nhà nước cộng sản giam cầm 3 lần, tổng cộng 15 năm tù, linh mục Nguyễn Văn Lý 3, 4 lần bị tù, tổng cộng khoảng 22-23 năm, Giáo sư Đoàn Viết Hoạt 2 lần ở tù tổng cộng 20 năm…Cho tới những người không nổi tiếng bằng như Đại úy quân đội VNCH Nguyễn Hữu Cầu–người từng được đặt biệt danh là “người tù thế kỷ” vì bị giam lâu nhất ở Việt Nam với tổng cộng 37 năm; ông Trương Văn Sương, cựu sĩ quan VNCH bị án tù chung thân, ở tù 33 năm sau đó được cho về một năm để chữa trị bệnh tật và qua đời chỉ hai mươi lăm ngày sau khi trở lại vòng lao lý v.v…

Cho tới thập niên 90 của thế kỷ XX và đầu những năm 2000, internet, mạng xã hôi chưa thịnh hành ở Việt Nam, thông tin về những tù nhân chính trị bị bắt và hoàn cảnh của họ trong tù còn bị bưng bít, chỉ thỉnh thoảng mới lộ ra ngoài, từ hồi ký của những người đã mãn hạn tù chẳng hạn, nhưng cũng có thể mường tượng phần nào mức độ khắc nghiệt, phi nhân của chế độ lao tù cộng sản. Nhất là vì giai đoạn đó nhà nước cộng sản còn đầy lòng căm thù đối với bên thua cuộc cũng như sự kiêu ngạo của những kẻ chiến thắng. Nên họ không chỉ giam cầm, đày đọa tù nhân chính trị về mặt thể xác, mà còn hành hạ, lăng nhục, khủng bố về mặt tinh thần, nhằm tiêu diệt lòng tự trọng, phẩm chất con người và bẻ gãy ý chí của tù nhân, và điều này mới là sự tàn ác lớn nhất. Nó để lại trong lòng tù nhân những cơn sang chấn tâm lý, những vết thương lâu dài, cho dù sau này họ đã ra tù.

Và tiếp theo lại đến thế hệ các anh Trần Huỳnh Duy Thức 16 năm đã ra tù, nhà hoạt động Nguyễn Đình Lượng 20 năm còn trong tù, nhà báo Phạm Chí Dũng 15 năm, nhà báo Nguyễn Tường Thụy 12 năm, nhà thơ Trần Đức Thạch 12 năm…tất cả vẫn còn trong tù v.v…Không thể đếm xuể lớp lớp người phải vào tù, hoặc phải bỏ nước ra đi sống lưu vong chỉ vì đã lên tiếng phản biện một cách ôn hòa và mong muốn một tương lai tốt đẹp hơn cho đất nước.

Lịch sử của đảng cộng sản Việt Nam là một lịch sử đầy bạo lực, đầy tội ác. Trong quá trình đó, họ không chỉ tiêu tiệt, loại trừ những nhân vật đối lập kiệt xuất, mà họ cũng loại trừ luôn những nhân vật có trình độ, có đầu óc cởi mở, cấp tiến hơn trong đảng, chỉ còn lại những nhân vật xuất thân từ bên tuyên giáo, nặng vể lý thuyết, lý luận Mác Lênin kiểu như Nguyễn Phú Trọng hay từ bên công an như Tô Lâm, Phạm Minh Chính hoặc bên quân đội. Thành ra nếu muốn thay đổi thì những con người như vậy cũng không có đủ dũng khí, trí tuệ, viễn kiến, tầm nhìn để mà hành động.

Điều tích cực duy nhất, nếu có, là thế hệ lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam bây giờ không còn dính líu trực tiếp đến cuộc nội chiến Nam-Bắc Việt Nam nên thù hận trong lòng có lẽ cũng không quá nặng nề, và vì không còn lý tưởng như thế hệ cha anh nên cũng thực tế, thực dụng hơn. Nếu sức ép từ phía nhân dân và từ phía bên ngoài đủ mạnh thì họ sẽ phải thay đổi.

Dân tộc này đã quá đủ bạo lực, chia rẽ, hận thù, chiến tranh. Chỉ bằng tình thương, sự hiểu biết, thái độ thành tâm học hỏi từ những bài học đau thương, lầm lạc của quá khứ và niềm khao khát mãnh liệt một tương lai tốt đẹp hơn cho các thế hệ mai sau mới có thể giúp người Việt, dù ở bất cứ thế đứng, vị trí nào, quyết tâm cùng nhau tạo ra những sự thay đổi thực sự cho đất nước, dân tộc.

Song Chi

Saturday, September 21, 2024

21.09.2024 Trần Huỳnh Duy Thức : “ĐẶC XÁ CƯỠNG BỨC” LỜI CHÀO ĐẦU TIÊN

 

Kính thưa quý đồng bào thân yêu,
Cuối cùng tôi đã trở về trong vòng tay yêu thương của gia đình, bạn bè, thân hữu và đồng bào thân yêu, những người đã che chở và chia sẻ với tôi những năm tháng gian truân và hào hùng của quãng thời gian dài gần 16 năm qua.
Dù cách trở tù đày, tôi vẫn luôn cảm nhận sự đồng cảm và tiếp sức của mọi người thông qua sự quảng bá rộng rãi các bài viết của tôi từ nhà tù, đặc biệt sự ủng hộ đồng lòng những cuộc tuyệt thực mang thông điệp quan trọng của tôi.
Nhân đây, tôi xin chân thành cảm ơn những tình cảm quý báu ấy của bè bạn trong và ngoài nước, nhất là các cơ quan đại diện ngoại giao Hoa Kỳ, EU, Đức, Pháp, Úc và Canada, các tổ chức quốc tế bảo vệ nhân quyền, các hãng truyền thông và báo chí hải ngoại cũng như quốc tế.
Đặc biệt, tôi bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đến các thành viên trong gia đình tôi, những người đã dành cho tôi tình yêu thương vô bờ bến, và phải chịu đựng nỗi đau cùng sự dày vò tinh thần và thể xác, thậm chí còn lớn hơn những gì tôi đã trải qua.
Chắc hẳn quý bạn đang muốn nghe những câu chuyện về nghịch cảnh mà tôi đã đối diện trong thời gian qua. Có rất nhiều câu chuyện như vậy cần được kể ra, nhưng xin hẹn mọi người dịp sau khi thuận tiện.
Duy có một điều khá khôi hài mà tôi muốn kể ngay với quý bạn lúc này. Đó là việc tôi bị ĐẶC XÁ CƯỠNG BỨC, một chuyện có thể nói là vô tiền khoáng hậu ở đất nước này.
Ngày 19/9/2024, đại diện của Trại giam số 6 thừa lệnh Bộ Công an thông báo với tôi rằng Chủ tịch nước muốn đặc xá cho tôi trước thời hạn, và yêu cầu tôi làm đơn xin đặc xá.
Tất nhiên, ngay lập tức tôi từ chối nhận đặc xá, và không ký vào đơn từ nào cả. Lý do là vì tôi phải được trả tự do theo đúng quy định mới của Bộ luật Hình sự hiện hành về hành vi mà tôi bị cáo buộc vi phạm, chứ tôi không cần ra tù nhờ sự đặc xá đó.
Vậy mà vào lúc 17g45 ngày 20/9/2024, hơn 20 người của Trại giam số 6 đã xông vào buồng giam đọc thông báo rằng Chủ tịch nước đã ký Quyết định đặc xá số 940 ngày 20/9/2024 về việc "đặc xá" cho tôi. Vì vậy tôi trở thành người tự do và không có quyền tiếp tục ở lại trại giam. Tôi phản ứng ngay rằng tôi không có tội cũng như lý do gì để nhận đặc xá và sẽ không đi đâu cả.
Thế là họ cưỡng bức, khiêng tôi ra khỏi cổng nhà tù trước sự phản đối của các anh em tù chính trị ở đó, rồi đưa tôi lên xe ra sân bay Vinh. Cuối cùng tôi bị buộc phải lên máy bay trong chuyến muộn vào Sài Gòn.
Một cách mặc nhiên, tôi đã góp phần quan trọng vào sự hỗ trợ chuyến công du Hoa Kỳ của ông Chủ tịch nước, một chuyến đi mang hy vọng về sự chuyển đổi mạnh mẽ cho đất nước trong tương lai. Các nhân viên an ninh bày tỏ sự vui mừng khi tôi bước lên máy bay và xin chụp một tấm hình kỷ niệm với tôi.
Bây giờ tôi lại muốn chia sẻ với mọi người đôi chút về tương lai. Hãy tin rằng dân tộc ta đang bước vào một cuộc chuyển mình vĩ đại không thể đảo ngược. Đó là tiến trình chuyển đổi ôn hòa được dẫn dắt bởi Trào lưu mềm với năng lượng mềm, giúp chuyển hóa mọi năng lượng giận dữ tích tụ bao đời. Điều tốt đẹp đó đang đến gần hơn bao giờ hết. Mong quý đồng bào giữ vững niềm tin!
Hẹn sớm gặp lại mọi người.
Trần Huỳnh Duy Thức
(Nguồn: FB Võ Hồng Ly)

Monday, September 16, 2024

Tại sao ở Tây Bắc lại sạt lở đất và mưa lũ gây ra hậu quả kinh hoàng đến như vậy?


Tại sao ở Tây Bắc lại sạt lở đất và mưa lũ gây ra hậu quả kinh hoàng đến như vậy? Nói ra lại bảo là ác.

Bài của tác giả: Quyết Hồ
Tôi đã đi Tây Bắc, Tây Nguyên, Đông Bắc, dễ đến hàng trăm lần, phượt Bắc-Nam rồi lại Nam-Bắc cũng vài ba gì đó, ô tô xe máy đều đủ cả. Nhưng đi tới đâu, dù cảnh sắc có hùng vĩ tới bao nhiêu thì trong lòng tôi vẫn canh cánh một điều. Đó là sự sốt ruột trước việc mất rừng.
Có nhiều người dẫn con số "mật độ che phủ rừng" của Việt Nam tăng liên tục trong nhiều năm qua để biện minh cho ý kiến, nói mưa lũ là do mất rừng là không đúng, hoặc đại khái là do "thế lực thù địch" dựng chuyện mà thôi, chứ làm gì có chuyện đó?
Nhưng mật độ che phủ rừng có lớn tới bao nhiêu, có tăng bao nhiêu mà chất lượng rừng không đa dạng, không tăng thì cũng như không. Bởi nếu một trận mưa diễn ra trong rừng tự nhiên nó sẽ khác, đó là cảm giác của tuổi thơ khi đi tìm trâu cả ngày trong rừng những hôm mưa gió. Còn một trận mưa ở rừng keo, rừng cây công nghiệp nó khác hoàn toàn. Nước tuôn xuống xối xả và ộc thẳng ra suối, rồi ra sông và tống về xuôi. Rừng một tán lá, một giống cây thì làm sao mà đủ sức cản trở nước mưa, giữ nước mưa trong nó bằng rừng đa tán, đa tầng? 
 


Những bức ảnh bên trên, tôi chụp ở gần điểm giao giữa Ql6 và QL37, chỗ gần tượng đài Cò Nòi. Kể từ đây, nếu chạy QL37 sang tới Đèo Chẹn, đứng từ đây, nhìn xuống sâu lòng vực thẳm thì thấy hùng vĩ thật đấy. Nhưng bên cạnh cái hùng vĩ đó là sự sợ hãi, bởi vì làm gì còn rừng? Lúc đứng ở đây là vào Tháng Ba, mới sau tết, tôi mơ hồ đặt câu hỏi trong lòng là: nếu mưa to thì ở đây sạt lở chết kinh hoàng tới thế nào? Và cuối cùng là sạt lở ở mạn Yên Bái, Lào Cai nhiều hơn. Nhưng như thế không có nghĩa là điều tôi lo lắng đã không đến. Nó đến, nhưng ở một nơi khác. 
Mà nguyên nhân chủ yếu vẫn là mất rừng, sau đó mưa to lâu ngày và xả lũ từ thủy điện mới là những yếu tố hội đủ cho thảm họa xảy ra. Tôi dùng từ "thảm họa" bởi nhìn ảnh đăng cảnh đường phố Yên Bái trên tường vài người bạn nó có khác gì chiến tranh đâu?
Lạng Sơn, Bắc Giang, Quảng Ninh, rồi vòng lên Hòa Bình, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang, Hà Giang, Thái Nguyên, Cao Bằng...vòng vào miền Trung là Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh...chạy theo Quốc Lộ 14 đâu đâu cũng thấy cảnh đốt rừng trồng keo.
Mưa bão qua rồi! Giờ là lúc khắc phục hậu quả. Nhưng sẽ khắc phục bao nhiêu lần nữa? Tôi đã nói về rừng rất nhiều, bởi không phải lợi lộc gì cho tôi. Mà là lớn lên ở bìa rừng, tuổi nhỏ nghịch cát, hái sim cạnh rừng, chơi đùa với những cơn mưa và những giòng nước từ rừng chảy ra. Tôi đau đớn khi chứng kiến rừng tự nhiên mất hằng ngày trước mặt mình, mà nói thì không ai nghe. Ai cũng tặc lưỡi vì lợi ích tiền bạc từ rừng keo rừng gỗ, rừng cây công nghiệp Quế, Hồi...mang lại. 
Đừng phá rừng rồi lại trồng rừng và kêu đó là yêu môi trường. Hãy giữ rừng, đừng phá nữa, thay đổi chính sách phát triển kinh tế đi, đừng dựa vào rừng gỗ giấy, rừng công nghiệp nữa. Phải quy hoạch lại các vùng cấm tuyệt đối không cho khai thác, không xâm lấn vào nơi ở của rừng nữa...
Quan sát vậy, bực dân buồn dân 1 nhưng buồn nhà nước, chính quyền và thể chế 10. Trong chiến lược phát triển quốc gia, đáng lý ra họ phải nhìn ra những điều trên và phải có chính sách sao đó, mà giữ lại rừng, phục hồi rừng. Làm thế nào, thì là trách nhiệm của họ. Nếu không làm được, thì đừng có ôm khư khư quyền lực nữa.
Chừng nào dân ta mới thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn mà nhìn xa, nhìn sâu hơn. 
Giá trị con người, dân tộc, quốc gia không chỉ là tiền bạc, nó còn là những giá trị vô hình. Tiếp tục chấp nhận hiện tại, mỗi năm chúng ta lại đón lũ, chống lũ rồi lại cãi nhau, chửi nhau, cấu xé, đấu tố nhau vì từ thiện. Hay là bắt tay vào sửa lại nước nhà, bắt đầu từ việc giữ rừng?